Tùy
bút 2014
Trong một ngày, có lẽ thời gian
thoải mái nhất của tôi là lúc lái xe đi làm. Ngày còn rất non, màn đêm chưa vén
nên nền trời còn đen kịt. Tôi cứ đi theo luồng xe, những đốm đỏ kéo thành vệt
dài không dứt lập lòe trước mặt. Chậm,
nhanh, cũng mặc.... Và thế, tôi thả tâm trí vẩn vơ về những ngày tháng cũ. Như sáng nay thôi,
trong màn trời đen của một ngày đông lạnh tôi bỗng dưng nhớ đến củ khoai ấm tình của một mùa Đông xưa.
Một củ khoai! Bạn chớ vội cười. Hãy cùng tôi
sống lại khung cảnh ấy. Cho dù bụi thời gian đã phủ dày nhưng kỷ niệm vẫn còn
đó y nguyên.
Mùa đông 1978, tôi được lệnh đổi đi
vùng kinh tế mới vừa thành lập ở ven rừng cách thị trấn độ 10km. Thông thừơng
việc thuyên chuyển giáo chức xảy ra vào dịp hè, trước ngày khai trường. Có lẽ
tôi là trường hợp đặc biệt khi bị đổi lúc
chưa thi học kỳ I.
Sáng tinh mơ,
tôi vác ba lô đi bộ theo đường đất đỏ
khúc khuỷu gập ghềnh vào nhiệm sở mới. Đoạn đường hôm nay xa hơn, kh́ó đi hơn vì tâm trí tôi trĩu nặng như chiếc ba lô đang đè nghiến đôi vai. Từ trên đồi cao dẫn vào làng, tôi lặng đứng nhìn khoảng đất rừng đỏ quạch khô khốc lưa thưa cây cối và những mái
lá tạm bợ như những chòi hoang không người. Dân chúng là gia đình của các vị đang đi "cải
tạo", gồm những bà mẹ trẻ với đàn con thơ cùng các cụ già ốm yếu, có lẽ họ
đã chưa từng phải làm lụng chân tay khổ nhọc,
nay "được" lên khu rừng mới khai phá để sống trong những căn nhà hay
những cái lều tạm bợ bám vào cánh rừng khô. Tôi được chia cho ở trong một góc nhỏ ngăn từ cái
lán để củi và dụng cụ làm vườn, nghe đâu là của nhóm “thanh
niên xung phong” dựng lên để tạm trú trong những ngày họ lên giúp khai phá
rừng: vách bằng lá chỉ cao ngang tầm mắt, và mái tranh thưa rếch thưa rang đến
nỗi có thể ở trong lán mà ngắm trăng đếm sao được. Nó không che được gió mưa và
sương đêm nơi chốn rừng sâu chướng khí. Tối đến tôi phải trùm tấm nilon lên
ngoài mền, nếu không thì sẽ bị ướt đẫm vì sương đêm nặng hạt. Nhưng có lẽ cái
đáng sợ hơn hết là việc bị đồng nghiệp xa lánh: Tôi đã bị mặc cho một cái áo
khác, áo mang màu của "tàn dư chế độ cũ", cái áo mọi người phải e dè
tránh né. “Trường” có
cấp I lẫn cấp II. Cấp I là dãy phòng khang trang xây trên đồi. Cấp II
là dãy nhà lá trống trải, dăm ba cái bàn ghế đóng tạm bằng cây rừng
cong queo xiêu vẹo. “Trường” rất vắng học sinh, vì mười hai mười ba tuổi
các em đã phải phụ mẹ đốn cây làm rẫy. Cấp II mới được mở, có đủ
4 cấp lớp nhưng chỉ có 2 thầy, và tôi,
cô giáo lưu dung. Chúng tôi phải chia nhau kiêm đủ các môn.
Buổi tối tôi chong ngọn đèn dầu tù mù căng mắt cố học những bài lịch sử lạ lẫm, những hình địa
lý xa xôi và những tảng văn không quen, để sáng mai lên lớp
"trả bài" cho đám học trò ốm o lơ láo không thiết tha gì đến chuyện học nhưng bị
bắt vào lớp ngủ gục.
Từ trong góc rừng xa vắng ấy, hơn
lúc nào hết tôi ham muốn được đi nhà thờ, dù phải mất hơn hai giờ đi bộ mới đến ngôi thánh đường gần nhất . Có lẽ tôi cần chốn tựa nương. Có lẽ
tôi muốn một mình lặng lẽ đi trong đêm tối để nghe bước chân mình, để được thả
đầu óc tự do bay về đậu lại dù chỉ vài khoảnh khắc trên bờ tường mang tên tháng
ngày cũ. Dạo ấy tất cả các thánh lễ ngày thường và chủ nhật phải được cử hành
từ lúc sớm tinh mơ (không cản trở giờ lao động.) Để có thể tham dự thánh lễ,
tôi khởi hành từ lúc 2 giờ sáng, gà còn chưa gáy sớm. Theo ánh sáng lờ nhờ của
ánh trăng bị che phủ bởi sương đêm dày đặc nơi vùng núi rừng cao nguyên, tôi đi
qua khá nhiều đồi cây cỏ lúp xúp, có đoạn xuyên qua những đồi trà đang bị bỏ
ngơ xơ xác tiều tụy. Mới vài năm trước thôi, những đồi trà này thuộc một đồn điền
rất trù phú, đã là nơi dừng chân của tôi và đám bạn trong những buổi rong chơi
cuối tuần. Chủ nhân của chúng giờ lưu lạc phương nao, tôi tự hỏi và chợt thấy nhói tim.
Lầm lũi bước đi trong cảnh trời đất
mênh mông đen như mực, cùng với gió lạnh sương buốt, tôi rùng mình cảm nhận sự
cô đơn chơ vơ tận cùng và nỗi lo sợ kinh hoàng về một ngày mai không định
huớng. Trong những
lần đi lễ ấy, một vài người trong khu kinh tế mới ấy đã trông thấy
tôi. Có lẽ từ đó họ tìm hiểu về “cô giáo lưu dung”.
Và đó là thời điểm tôi nhận được củ
khoai.
Tối hôm ấy vừa xong buổi "sinh
hoạt tập thể", thân xác rã rời bước về lán, mũi tôi hếch lên vì cái mùi
thơm của khoai lang nóng. Lạ. Nheo mắt nhìn quanh cái lán tối mù, tôi thấy một
củ khoai nằm chễm chệ trên bàn (bàn chỉ là một tấm ván cong queo treo lên vách
lá). Củ khoai bé chỉ bằng nửa nắm tay lại còn méo mó. Loại này ngày trước chẳng ai thèm lượm,
thường bị bỏ lăn lóc lại ngoài nương để làm phân bón cho mùa tới. Bây giờ nó là
nỗi ao ước của những người dãi dầu ngoài kia, là món quà quá quý báu với tôi.
Dù trong cái lán trống trơn gió lùa bốn phía, nó vẫn thơm nức thơm lừng. Củ
khoai còn rất ấm, chừng như ai đó vừa lén bỏ vào. Tôi ôm nó vào lòng hai bàn
tay, đưa lên mũi, ấp lên má mà nước mắt rưng rưng: học trò cũng biết cô giáo
thiếu ăn. Mà cơ khổ, chắc em cũng đang đói meo! Rồi không phải chỉ nước mắt mà
nước miếng tôi cũng ứa ra: thèm quá! Còn nhớ như in: Tôi đã bứt từng cọng rễ,
xé từng mảnh vỏ mỏng như lụa bỏ vào miệng nhỏ nhẻ nhai, rồi mới trịnh trọng nhè
nhẹ đặt răng vào củ khoai cắn từng miếng thật bé, ngậm mà nghe nó tan trong
miệng, không dám nuốt cái huơng vị ngọt ngào ấy. Chao ơi chẳng
có củ khoai nào thơm ngon như thế. Không biết em nào trong đám thiếu niên còm
cõi ốm o kia đã can đảm nhường củ khoai quý báu ấy cho cô giáo để tôi nói lời
cảm ơn. Củ khoai đã làm cho lòng tôi ấm lại. Nó không còn là một củ khoai ốm o
méo xẹo mà tròn trịa no đầy tình yêu thuơng sẻ chia, nó thơm ngát tình người
nơi thâm sơn cùng cốc. Củ khoai như là một tín hiệu của sự bảo bọc chở che? Một sự chia sẻ? Tôi không đoan chắc, nhưng từ đó sự cô đơn trong tôi bớt ray
rứt kinh hoàng. Một củ khoai đầy ân tình. Chỉ một củ khoai thôi!
0o0o0o0
Bốn
mươi năm trôi qua rồi, mà bây giờ mỗi lần đi cắm trại nơi quê mới xa cách nghìn trùng chốn cũ, bên lửa hồng nồng ấm tình bạn, tôi lại bần thần nhớ. Như kẻ háu ăn, tôi chăm bẳm nhìn những củ khoai no tròn vàng ươm đang được khều ra khỏi lớp tro màu lam xám nhạt. Trong lúc các bạn quây
quần nói chuyện và đàn hát rôm rả bên ngọn lửa bập bùng nhảy nhót, tôi với tay vào rổ khoai nướng nhón lấy một củ nhỏ nhất, lui về phía sau, thả hồn về ngày
ấy.
Tựa
lưng vào gốc cây, ôm củ khoai thơm ngát nóng hổi vào lòng hai bàn tay, tôi nhắm
mắt nhớ về củ khoai đầy tình nghĩa năm nào. Rèm mi nhòe ướt của tôi qua ánh lửa bập bùng làm cho củ khoai
trong tay bỗng bám đầy những hạt kim cương lóng lánh, như kỷ niệm xưa còn sáng
mãi, và bài học quý vô ngần về sự đùm bọc sẻ chia sẽ không bao
giờ lụn tắt trong lòng tôi.
Cảm
ơn em, người học trò miền rừng núi năm nao.
Mùa đông 2014