Tùy bút
Trong
một ngày, có lẽ thời gian thoải mái nhất của tôi là lúc lái xe đi làm. Ngày còn
rất non, màn đêm chưa vén nên nền trời còn đen kịt. Tôi cứ đi theo luồng xe, những
đốm đỏ kéo thành vệt dài không dứt lập lòe trước mặt, chậm, nhanh cũng mặc.... Và thế, tôi thả tâm trí vẩn
vơ về những ngày tháng cũ. Như sáng nay
thôi, trong màn trời đen của một ngày đông lạnh tôi bỗng dưng nhớ đến củ khoai ấm tình của một mùa Đông xưa.
Một củ khoai! Bạn chớ vội cười. Hãy cùng tôi sống
lại khung cảnh ấy. Cho dù bụi thời gian đã phủ dày nhưng kỷ niệm vẫn còn đó y
nguyên.
Mùa
đông 1978, tôi được lệnh đổi đi vùng kinh tế mới vừa thành lập ở ven rừng cách
thị trấn độ 10km. Thông thừơng việc thuyên chuyển giáo chức xảy ra vào dịp hè,
trước ngày khai trường. Có lẽ tôi là trường hợp đặc biệt: bị đổi khi chưa thi học
kỳ I. Tôi vác ba lô đi bộ theo đường đất đỏ khúc khuỷu gập ghềnh vào nhiệm sở mới.
Dân chúng là gia đình của các vị đang đi "cải tạo", gồm những bà mẹ
trẻ với đàn con thơ cùng các cụ già ốm yếu, có lẽ họ đã chưa từng phải làm lụng
chân tay khổ nhọc nay "được" lên khu rừng mới khai phá để sống trong những căn nhà hay
những cái lều tạm bợ bám vào cánh rừng khô. Tôi ở trong một góc nhỏ ngăn từ cái lán để củi và dụng cụ làm vườn, nghe
đâu là của thanh niên xung phong dựng lên để tạm trú trong những ngày họ lên giúp khai phá rừng: vách
bằng lá chỉ cao ngang tầm mắt, và mái tranh thưa rếch thưa rang đến nỗi có thể ở
trong lán mà ngắm trăng đếm sao được. Nó không che được gió mưa và sương đêm
nơi chốn rừng sâu chướng khí. Tối đến tôi phải trùm tấm nilon lên ngoài mền, nếu
không thì sẽ bị ướt đẫm vì sương đêm nặng hạt. Nhưng có lẽ cái đáng sợ hơn hết
là việc bị đồng nghiệp xa lánh: Tội đã bị
mặc cho một cái áo khác, áo mang màu của "tàn dư chế độ cũ", cái áo mọi
người phải e dè tránh né.
Từ
trong góc rừng xa vắng ấy, hơn lúc nào hết tôi ham muốn được đi nhà thờ. Có lẽ
tôi cần chốn tựa nương. Có lẽ tôi muốn một mình lặng lẽ đi trong đêm tối để
nghe bước chân mình, để được thả đầu óc tự do bay về đậu lại dù chỉ vài khoảnh
khắc trên bờ tường mang tên tháng ngày cũ. Dạo ấy tất cả các thánh lễ ngày thường
và chủ nhật phải được cử hành từ lúc sớm tinh mơ, không cản trở giờ lao động. Để có thể tham dự thánh
lễ, tôi khởi hành từ lúc 3 giờ sáng, gà còn chưa gáy sớm. Theo ánh sáng lờ nhờ của ánh trăng bị che phủ bởi sương đêm
dày đặc nơi vùng núi rừng cao nguyên, tôi đi qua khá nhiều đồi cây cỏ lúp xúp, có đoạn xuyên qua những đồi trà đang
bị bỏ ngơ xơ xác tiều tụy. Mới vài năm trước thôi những đồi trà này rất trù phú, đã là nơi dừng chân của tôi và
đám bạn trong những buổi rong chơi cuối tuần. Chủ nhân của chúng giờ lưu lạc
phương nao, tôi tự hỏi. Lầm lũi bước đi trong cảnh trời đất mênh mông đen như mực,
cùng với gió lạnh sương buốt, tôi thật sự rùng mình cảm nhận sự cô đơn chơ vơ tận
cùng và nỗi lo sợ kinh hoàng về một ngày mai không định huớng.
Và đó là thời
điểm tôi nhận được củ khoai.
Tối
hôm ấy vừa xong buổi "sinh hoạt tập thể", thân xác rã rời bước về lán, mũi tôi hếch lên vì cái
mùi thơm của khoai lang nóng. Lạ. Nheo mắt nhìn quanh cái lán tối mù, tôi thấy
một củ khoai nằm chễm chệ trên bàn (bàn chỉ là một tấm ván cong queo treo lên
vách lá). Củ khoai bé chỉ bằng nửa nắm tay lại còn méo mó. Loại này ngày trước chẳng ai thèm lượm, thuờng
bỏ lăn lóc lại ngoài nương để làm phân bón cho mùa tới. Bây giờ nó là nỗi ao ước
của những người dãi dầu ngoài kia, là món quà quá quý báu với tôi. Dù trong cái
lán trống trơn gió lùa bốn phía, nó vẫn thơm nức thơm lừng. Củ khoai còn rất ấm, chừng như ai đó vừa lén bỏ vào. Tôi ôm nó vào lòng hai bàn tay, đưa lên mũi, ấp lên
má mà nước mắt rưng rưng: học trò cũng biết cô giáo thiếu ăn. Mà cơ khổ, chắc
em cũng đang đói meo! Rồi không phải chỉ
nước mắt mà nước miếng tôi cũng ứa ra: thèm quá! Còn nhớ như in: Tôi đã bứt từng
cọng rễ, xé từng mảnh vỏ mỏng như lụa bỏ vào miệng nhỏ nhẻ nhai, rồi mới trịnh
trọng nhè nhẹ đặt răng vào củ khoai cắn từng miếng thật bé, ngậm mà nghe nó tan
trong miệng, không dám nuốt cái huơng vị ngọt ngào ấy. Chao ơi không có củ
khoai nào thơm ngon như thế. Không biết em nào trong đám thiếu niên còm cõi ốm o kia
đã can đảm nhường củ khoai quý báu ấy cho cô giáo để tôi nói lời cảm ơn. Củ
khoai đã làm cho lòng tôi ấm lại. Nó không còn là một củ khoai ốm o méo xẹo mà
tròn trịa no đầy tình yêu thuơng sẻ chia, nó thơm ngát tình người nơi thâm sơn
cùng cốc. Củ khoai như là một tín hiệu của sự bảo bọc bao che? Tôi không đoan
chắc nhưng từ đó sự cô đơn trong tôi bớt ray rứt kinh hoàng.
Bây giờ mỗi lần đi cắm trại, bên ngọn
lửa hồng nhảy nhót, trong lúc các bạn quây quần với rổ khoai nướng thơm lừng nói chuyện và
đàn hát rôm rả, tôi nhón lấy môt củ, lui về phía sau tựa lưng vào gốc cây, ôm củ
khoai thơm ngát nóng hổi vào lòng hai bàn tay, nhắm mắt nhớ về củ khoai đầy
tình nghĩa năm nào. Qua ánh lửa bập bùng và rèm mi nhòe ướt, củ khoai trong tay
bỗng bám đầy những hạt kim cương lóng lánh, như kỷ niệm xưa còn sáng mãi và bài
học quý vô ngần về sự đùm bọc sẻ chia sẽ
không bao giờ lụn tắt trong lòng tôi.